– Thương phiếu hình thành từ giao dịch cơ sở :Giao dịch cơ sở của thương phiếu là giao dịch hợp đồng thương mại, quy định quyền và nghĩa vụ của hai bên mua và bán: Người bán có nghĩa vụ giao hàng và có quyền lợi nhận tiền thanh toán từ người mua. Người mua có nghĩa vụ thanh toán và có quyền lợi nhận hàng từ người bán. Đối với hối phiếu, người bán sẽ giao hàng trước và sau đó ký phát hối phiếu đòi tiền người mua sau. Đối với lệnh phiếu, người mua sẽ ký phát lệnh phiếu cam kết trả tiền cho người bán, sau khi nhận được lệnh phiếu người bán sẽ giao hàng. Như vậy giao dịch cơ sở là có trước, thương phiếu là cái có sau. Không có giao dịch cơ sở thì sẽ không có sự hình thành thương phiếu tương ứng.
-Thương phiếu được nhận diện dễ dàng, trực tiếp: Thương phiếu là tài sản tài chính vô hình. Chúng chỉ là những tờ giấy nhỏ nhưng chứa đựng những lợi ích pháp lí trong tương lai, được thể hiện ở nội dung và hình thức của thương phiếu. Khi nhận dạng được hình thức và nội dung của thương phiếu một cách dễ dàng và trực tiếp thì mới có thể nhận biết được dung lượng các quyền pháp lý đối với lợi ích tương lai của thương phiếu.
-Thương phiếu là trái vụ một bên .
Đối với hối phiếu: Thương phiếu là một chứng chỉ do một người ký phát ra lệnh cho người bị ký phát thực hiện một nghĩa vụ dân sự- trả tiền.
Đối với lệnh phiếu: Thương phiếu là một chứng chỉ do người phát hành cam kết đối với người thụ hưởng sẽ thực hiện một nghĩa vụ dân sự- trả tiền.
Vì vậy, nghĩa vụ dân sự có được thực hiện hay không phụ thuộc vào sự chấp nhận của người bị ký phát đối với hối phiếu và khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của người phát hành đối với lệnh phiếu.
– Tính “trừu tượng” của thương phiếu
Trên thương phiếu không cần thể hiện nguyên nhân sinh ra việc lập thương phiếu, mà chỉ cần ghi rõ số tiền cần phải trả và các nội dung liên quan đến việc trả tiền.
Trong lưu thông, giá trị pháp lí của thương phiếu cũng không bị ràng buộc vào nguyên nhân nào phát sinh ra nghĩa vụ trả tiền của thương phiếu.
Khoản nợ ghi trên thương phiếu là hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc vào sự tồn tại hay không tồn tại của giao dịch cơ sở.
– Tính bắt buộc của thương phiếu
Quy định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ hưởng đúng hạn, không được phép từ chối hoặc hoãn trì việc trả tiền.
– Tính lưu thông của thương phiếu
Thương phiếu có thể được lưu thông từ người này sang người khác trong thời hạn hiệu lực của nó.
Căn cứ vào mục đích của lưu thông thương phiếu, chia làm 3 loại lưu thông khác nhau:
Lưu thông nhằm mục đích để đòi tiền: người thụ hưởng thương phiếu ủy quyền cho Ngân hàng đòi tiền người trả tiền thương phiếu => lưu thông có vai trò như là phương tiện thanh toán thay cho tiền mặt.
Lưu thông không nhằm mục đích chuyển nhượng quyền hưởng lợi thương phiếu: người thụ hưởng thương phiếu ký hậu chuyển nhượng thương phiếu cho người khác => lưu thông có vai trò như là chuyển nhượng tài sản.
Lưu thông thứ 3 là lưu thông “ hàng hóa thương phiếu”: thương phiếu là một loại tài sản tài chính, do vậy người sở hữu thương phiếu có thể bán cho Ngân hàng để lấy tiền ngay hoặc cầm cố thương phiếu để vay tiền. => lưu thông này không mang tính chất lưu thông thanh toán thương phiếu hay lưu thông chuyển nhượng thương phiếu mà là lưu thông “ hàng hóa thương phiếu”.