Bức tranh tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 9 tháng năm 2025
Kết quả tăng trưởng GDP 9 tháng năm 2025
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2025 tăng trưởng tích cực với tốc độ tăng ước đạt 7,85% so với cùng kỳ năm trước, tiệm cận tới kịch bản mục tiêu 8%. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,83%, đóng góp 5,36% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,69%, đóng góp 43,05%; khu vực dịch vụ tăng 8,49%, đóng góp 51,59%. Tăng trưởng GDP 9 tháng năm 2025 chỉ thấp hơn tốc độ tăng 9,44% của 9 tháng năm 2022 của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2025. Về góc độ sử dụng, tiêu dùng cuối cùng 9 tháng tăng 8,07% so với cùng kỳ năm 2024, đóng góp 73,83% vào tốc độ tăng chung; tích lũy tài sản tăng 8,52%, đóng góp 41,43%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 15,51%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,75%.
Hình 1. Tốc độ tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ năm trước (%)

Động lực tăng trưởng 9 tháng năm 2025
Nhìn từ góc độ sản xuất
Trong 9 tháng qua, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế với mức tăng ổn định, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Sản lượng cây lâu năm đạt khá, chủ yếu nhờ nhiều loại cây ăn quả giá trị cao bước vào vụ thu hoạch, trong đó sản lượng vải tăng 59,4%; nhãn tăng 13,9%; sầu riêng tăng 19,3%; chôm chôm tăng 14,5%; cà phê tăng 13%; hồ tiêu tăng 6,9% và chè búp tăng 4,0%.Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát, nhu cầu tiêu thụ tăng do chăn nuôi lợn chịu ảnh hưởng dịch bệnh đã thúc đẩy người nuôi gia cầm chủ động tái đàn và đẩy mạnh sản xuất, cung ứng kịp thời cho thị trường. Sản xuất lâm nghiệp tăng trưởng tích cực, giá nguyên liệu gỗ ổn định ở mức cao khuyến khích người dân tăng cường khai thác gỗ, sản lượng gỗ khai thác ước đạt gần 18,0 triệu m3, tăng 8,7%. Hoạt động nuôi trồng thủy sản tăng khá, các cơ sở nuôi trồng triển khai nhiều mô hình nuôi siêu thâm canh, thâm canh. Tính chung chín tháng năm 2025, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 4.284,3 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng cá tra ước đạt 1.341,2 nghìn tấn, tăng 4,6%; tôm thẻ chân trắng đạt 719,7 nghìn tấn, tăng 7,1%.
Sản xuất công nghiệp trong nước tăng trưởng tích cực trong bối cảnh cạnh tranh thương mại thương mại toàn cầu diễn ra gay gắt, phức tạp hơn về thuế xuất, xuất nhập khẩu,… Sản xuất công nghiệp các quý từ đầu năm tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước. Cụ thể, quý I/2025 tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước; quý II tăng 8,4%; quý III tăng 9,8%… Tính chung 9 tháng năm 2025, tăng trưởng công nghiệp đạt 8,69%.
Khu vực dịch vụ 9 tháng năm 2025 đạt mức tăng trưởng cao. Các ngành dịch vụ tăng trưởng khá là: Ngành vận tải, kho bãi tăng 10,68% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 10,15%; bán buôn và bán lẻ tăng 8,28%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,06%… Nhiều hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn của dân tộc như Lễ diễu binh, diễu hành cấp quốc gia kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025 – A50) ở thành phố Hồ Chí Minh và Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Quốc khánh Việt Nam (A80) ở Hà Nội đã thu hút đông đảo khách du lịch trong nước và quốc tế. Du lịch phát triển tác động lan tỏa tới các ngành dịch vụ liên quan, tiêu dùng nội địa, logistics, vận tải, dịch vụ lưu trú và ăn uống… đều tăng trưởng khá. Khách quốc tế đến Việt Nam ước tính đạt hơn 15,4 triệu lượt khách, tăng 21,5% so với cùng kỳ năm trước.
Về góc độ sử dụng
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 9 tháng năm 2025 theo giá hiện hành ước đạt 2.701,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6 % so với cùng kỳ năm 2024, cao hơn nhiều mức tăng 7,0% của 9 tháng năm 2024. Kết quả này đã phản ánh rõ tình hình sản xuất kinh doanh tiếp tục xu hướng tích cực ở nhiều ngành, lĩnh vực. Việc đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công với khối lượng vốn rất lớn đã tạo động lực cho sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng và lan tỏa đến các ngành kinh tế. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI thực hiện 9 tháng năm nay ước đạt 18,80 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước, là mức cao nhất của 9 tháng các năm trong giai đoạn 2021-2025.
Thị trường tiêu dùng nội địa trong nước trong 9 tháng qua cho thấy dấu hiệu phục hồi vững chắc. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2025 ước tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2024, phản ánh niềm tin tiêu dùng được cải thiện. Sự phát triển của thương mại điện tử, thanh toán số, cùng với nhu cầu dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí tăng mạnh ở các đô thị đã trở thành động lực rõ rệt.
Xuất khẩu tiếp tục có tăng trưởng tốt, là động lực chính của tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2025 tăng trưởng 16,0%, xuất siêu đạt khoảng 16,82 tỷ USD, cho thấy khả năng chống chịu và đa dạng hóa thị trường và mặt hàng của Việt Nam.
Đánh giá về chất lượng tăng trưởng và tính bền vững của nền kinh tế nói chung
Tăng trưởng 9 tháng đạt được trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều biến động, cho thấy nội lực và khả năng thích ứng của nền kinh tế Việt Nam đang dần được củng cố. Tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm nay được hỗ trợ bởi một số yếu tố thuận lợi sau:
(1) Tín dụng của nền kinh tế tăng trưởng khá, tính đến ngày 29/9/2025, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 13,37%. Tín dụng chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế, cho thấy dòng vốn được định hướng đúng hướng và hiệu quả.
(2) Thu ngân sách Nhà nước 9 tháng đạt kết quả vượt trội, tăng 30,5% so với cùng kỳ năm 2024, bằng 97,9% dự toán năm, cho thấy sức khỏe sản xuất – kinh doanh được cải thiện rõ nét; các chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đã phát huy hiệu quả.
(3) Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 9 tháng tăng 11,6%, cao hơn nhiều so với mức tăng 7,0% của cùng kỳ năm trước, trong đó đầu tư công được đẩy vào các dự án hạ tầng trọng điểm (như đường bộ cao tốc, năng lượng) đang tạo ra những động lực vật chất lâu dài. Cùng với đó là việc hoàn thiện thể chế nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tạo niềm tin cho doanh nghiệp.
(4) Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tính đến hết ngày 30/9/2025 tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký và vốn thực hiện của khu vực FDI đều tăng khá, thể hiện niềm tin ngày càng tăng lên của nhà đầu tư quốc tế đối với phát triển kinh tế Việt Nam.
(5) Tiêu dùng nội địa dần phục hồi, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước; các hoạt động du lịch, giải trí và ăn uống ngoài gia đình sôi động … đóng góp tích cực vào tăng trưởng.
Một số hạn chế cần khắc phục để tăng trưởng đạt chất lượng và bền vững
(1) Tăng trưởng của xuất khẩu và đầu tư FDI vẫn dựa nhiều vào khu vực gia công, giá trị gia tăng nội địa còn thấp; các rào cản thương mại và tiêu chuẩn xanh tại Mỹ, EU ngày càng siết chặt.
(2) Mặc dù lạm phát trong nước được kiểm soát, áp lực từ chính sách lãi suất cao kéo dài của các ngân hàng Trung ương lớn tạo áp lực lên tỷ giá và chi phí vốn cho doanh nghiệp. Vì vậy, lãnh đạo các cấp, các ngành cần đưa ra các chính sách kiểm soát giá, chi phí sản xuất đầu vào linh hoạt để vừa ổn định vĩ mô, vừa duy trì lãi suất thấp hỗ trợ tăng trưởng.
(3) Khu vực công nghiệp và dịch vụ phục hồi tốt nhưng sự phát triển giữa các vùng và sự phục hồi của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước vẫn cần được củng cố mạnh mẽ hơn để tạo nội lực bền vững.
(4) Tăng trưởng dịch vụ, tiêu dùng nội địa chưa thực sự vững chắc, mặc dù khách quốc tế đến nước ta tăng cao nhưng tiêu dùng hộ gia đình còn chịu áp lực từ thu nhập thực tế, người dân có xu hướng thay đổi thói quen tiêu dùng.
(5) Rủi ro thiên tai, khí hậu: Tần suất bão lũ gia tăng trong mấy năm gần đây, đặc biệt rơi vào quý III và đầu quý IV đã gây thiệt hai cả về người và tài sản. Nhiều tuyến đường, cảng biển, kho bãi bị gián đoạn do ngập lụt, sạt lở hoặc hư hỏng, làm chậm trễ vận chuyển hàng hóa. Những yếu tố này gây ảnh hưởng lớn đến chuỗi cung ứng, chi phí vận tải và hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Nguồn: Cơ quan Thống kê Quốc Gia


English